Khi hệ thống tài chính Mỹ rơi vào suy thoái, ngay lập tức những ngón tay nhắm ngay vào “quants” – nhà vật lý học, toán học, nhà kỹ thuật, những người đã xây dựng lên hệ thống các chương trình máy tính, công cụ thống kê, công cụ tài chính để giúp quản lý rủi ro cho nhà đầu tư. Trong khi đó, các nhà phê bình cho rằng những giả định có phần nhầm lẫn về các mô hình tài chính này đã đẩy các ngân hàng tới bờ vực của cuộc chiến khốc liệt.
Bạn có thể suy luận rằng tại thời điểm này Wall Street đang bỏ quên các nhà vật lý học, toán học và nhà kỹ thuật, nhưng bạn sai rồi! Những con người tài năng với nền tảng định lượng đang được chào đón hơn bao giờ hết – Petter Kolm, phó giám đốc chương trình thạc sỹ toán học về tài chính, đại học New York, một “quants” thứ thiệt thổ lộ. Trước khi mớ hỗn độn tài chính bắt đầu vào năm 2007, các ngân hàng đầu tư đặc biệt thích tuyển dụng thạc sỹ MBA mới ra trường làm việc như những nhà phân tích mới nhận việc. “Nhiều ngân hàng đầu tư nói với tôi rằng họ muốn đổi thạc sỹ lấy những người có kỹ năng phân tích định lượng như là kỹ thuật hay toán học chẳng hạn.”
Văn hóa phố Wall đã ít vận hành theo lối làm việc cũ và cũng ít phụ thuộc vào các mối quan hệ cá nhân mà dựa nhiều vào công nghệ cao. Juhua Zhu, tiến sĩ kỹ thuật điện tử đại học Princeton, phố tổng giám đốc tại Morgan Stanley chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng sau bốn năm gia nhập công ty. Bà nói “Những giao dịch truyền thống mất dần khi giao dịch được chuyển sang máy tính.”
Những thay đổi trên đang tạo nên xu thế đòi hỏi sự thành thạo toán học và dữ liệu. “Công việc định lượng đòi hỏi những con người có tài năng về nghiên cứu – người có để hiểu bất cứ ngữ cảnh nào trong bất cứ lĩnh vực kĩ thuật nào và đạt tới cấp độ chuyên môn cao trong một khoảng thời gian nhất định”. Alp Atici, tiến sĩ toán học, nhà nghiên cứu định lượng quỹ tài chính Citadel Invesment Group chia sẻ. “Tiến sĩ khoa học và toán học thuần túy thường quen với văn bản nghiên cứu khó và chuyên sâu hơn rất nhiều.”
Một trong những quants đầu tiên là Roberl Merton, người bắt đầu sự nghiệp là một nhà toán học ứng dụng tại Caltech trước khi chuyển sang ngành kinh tế tại MIT. Năm 1969, Merton cố gắng giải đáp bài toán về lựa chọn giá cổ phiếu nhờ vào phương pháp tính toán ngẫu nhiên – một hệ thống toán học được sử dụng để mô hình hóa hệ thống ngẫu nhiên như là chuyển động Brownian, chuyển động của các hạt trong chất lỏng. Thời hoàng kim của quants là khi Merton và Myron Scholes nhận được giải Nobel về kinh tế cho mô hình lựa chọn – giá của họ. (Tuy nhiên Merton – người tạo nên xu hướng trong nhiều lĩnh vực, đã tiếp tục đi trước một bước nữa. Ông và Scholes là hai thành viên trong ban quản trị của quỹ Quản Lý Đầu Tư Dài Hạn khi công ty lỗ hơn 4 tỷ đô năm 1998. Cục dữ trữ liên bang, vì sợ khủng hoảng tiền tệ có thể xảy ra đã lên kế hoạch tái cơ cấu để báo trước sự can thiệp tiền tệ mạnh mẽ trong năm 2008.)
Các nhà vật lý và toán học từ chối các công việc hàn lâm để làm việc ở Wall Street với mức lương hậu hĩnh đã tăng theo cấp số nhân dưới thời cai trị của tổng thống Reagan. Thời gian đó, mốt mua bán trái phiếu lãi cao (junk-bond) và hiện tượng thôn tính thị trường xảy ra và biến mất, nhưng quants vẫn ở lại. Vai trò trực tiếp của họ trong cuộc khủng hoảng hiện nay bắt đầu từ sự bùng nổ thị trường nhà đất vào năm 1990 bởi vì quants giúp ngân hàng gộp các gói thế chấp, thẻ tín dụng và các loại tài sản khá lại; tách rời các gói và bán chúng như các công cụ được biết đến là chứng khoán tài sản đảm bảo. Điều này xóa đi những tài sản rủi ro khỏi bảng cân đối kế toán, giải phóng tiền tệ và tạo cơ hội cho công ty vay nhiều tiền hơn nữa. Quants được công nhận là người tạo ra các mô hình giúp nhà đầu tư hiểu, quản lý và xác định giá của rủi ro chứng khoán.
Chứng khoán tài sản đảm bảo sẽ là sự đổi mới to lớn nếu nó được sử dụng một cách đúng đắn. Nhưng điều này lại không xảy ra. Emanuel Derman, chuyên gia nghiên cứu hoạt động và định lượng đại học Columbia và là tác giả của cuốn hồi ký My Life as a Quant: : Reflections on Physics and Finance nói rằng “ngân hàng không thể dừng lại và huy động quá nhiều tiền”. Những công thức toán học của quants không có tác dụng gì nhiều trong việc giảm thiểu rủi ro mà lại che giấu nó đi.Và khi đến thời điểm quyết định, một biến quan trọng mà các mô hình định lượng không hề đưa vào xem xét đó là số lượng các khoản vay dưới chuẩn không thể hoàn trả.
Vậy có phải các quants thiếu tầm nhìn? Sự thật là không có một mẫu chuẩn nào, Derman nói. Đầu vào của các mô hình tài chính có liên quan tới hành vi con người trong tương lai. Nhưng thước đo hành vi con người thay đổi qua từng giai đoạn.
“Nếu bạn đang thiết kế một hệ thống định vị toàn cầu, khoảng cách từ đây đến Waterloo luôn cố định” – ông ấy nói – “tài chính định lượng không dựa nhiều vào khoa học tài chính. Đó là một môn khoa học trong đó các nguyên lý được áp dụng cho các biến liên quan đến hành vi của con người.
Nhưng tại sao các quants lại không lên tiếng cảnh báo về rủi ro gắn liền với đổi mới? Kolm nói rằng các nhà hoạch định kinh doanh, không phải quants, ra quyết định mà không quan tâm nhiều đến rủi ro. Trong một ngân hàng đầu tư, nhà quản lý rủi ro là những người đưa ra cảnh báo về những rủi ro ” Bạn tiếp tục cuộc chơi hay rút lui, bạn đều là kẻ thất bại trong cuộc chiến”. Rõ ràng gian lận thế chấp giữ một vai trò quan trọng chịu trách nhiệm cho sự bóp méo dữ liệu của các mô hình tài chính được dùng để dự tính các tài sản thế chấp.
Mặc dù nhà vật lý và nhà kỹ thuật giữ một vai trò trong suy thoái kinh tế, mối liên hệ này xem ra không có gì là căng thẳng. Dù cho số lượng công việc xét về tổng thể có giảm đi sau vụ sụp đổ của ngân hàng Lehman Brothers và sự sáp nhập của hai ngân hàng Bank of America và Merill Lynch, số lượng các chuyên gia quants được thuê và bị sa thải cũng không vì thế mà giảm đi hay tăng lên.Beverly Principal, trợ lý giám đốc dịch vụ tuyển dụng tại Stanford chia sẻ: trong khi các công ty tài chính vẫn đang mài đũng quần trên ghế nhà trường thì nhiều học viên vẫn thích thú với công việc tài chính. Đại diện dịch vụ nghề nghiệp tại những trường khác đồng ý với ý kiến này.Ilias, giáo sư EE từ đại học Princeton chia sẻ: mỗi công ty khi bắt đầu phải có chọn lọc, và những người học cao phải đóng góp năng lực ở mức độ cao hơn. Công ty Credit Suisse Securities đã dành cả năm qua cố gắng thu hút các giáo sư vật lý, toán học và kỹ thuật từ những ngôi trường danh tiến. Một loạt kĩ năng – lập trình, thành thạo toán, và khả năng giao tiếp giúp Ilisa leo lên vị trí quản lý quan hệ khách hàng. Hầu hết các thành viên trong nhóm của anh đều có bằng tiến sĩ từ nhiều ngôi trường uy tín.
Thiếu hụt việc làm nhận được sự quan tâm từ chính cộng đồng quants;. Ming Zong, nhà quản lý danh mục đầu tư tại một ngân hàng đầu tư ở New York nói rằng khi anh tốt nghiệp thạc sỹ với tấm bằng EE từ đại học Comlumbia năm 2004, 70% công việc sẵn có từ chương trình đại học – tuyển dụng có liên quan đến tài chính. Anh nói thêm rằng tại thời điểm hiện nay, sinh viên tốt nghiệp đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội thực tập ngay cả khi thực tập không lương. “Nếu là một năm trước, tôi sẽ nói với sinh viên phải tiếp tục cố gắng và luôn hy vọng. Sáu tháng trước, tôi đề xuất với sinh viên thử tìm kiếm cơ hội xung quanh xem. Xuân năm nay, tôi khuyên họ ‘Em nên suy nghĩ thay đổi công việc đi’.”
Nhưng mọi chuyện không phải luôn theo chiều hướng tiêu cực. Khi nền kinh tế ổn định trở lại, Morgan Zhu dự đoán rằng “Chiếc bánh thị phần sẽ thu hẹp lại, nhưng số lượng công việc cho những người có nền tảng kỹ thuật sẽ tiếp tục tăng trưởng.”
Bạn quan tâm: học đầu tư chứng khoán, học chơi chứng khoán, học chứng khoán cơ bản, khóa học chứng khoán